kìa em xiêm áo tự bao giờ
Chữ “kìa” là từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan. Xa Tây Tiến mới có bao ngày, thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp, Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy, Có thấy hồn lau nẻo bến bờ? Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ • Câu hỏi tu từ “tự bao giờ” : dịu nhẹ, bâng khuâng • Xiêm áo: áo dân tộc Thái • “Kìa em” : cụm từ cảm thán, câu gọi mang tính ngạc nhiên, mê say của chàng lính Tây Tiến 4 câu thơ đầu: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo
Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy. Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Có nhớ dáng người trên độc mộc. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr. 88-89)
Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ áo bào thay chiếu, anh về đất
Wo Kann Ich Einen Reichen Mann Kennenlernen. Học tốt Ngữ văn 12Ngữ văn 12 Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnNội dung bài thơ Tây TiếnI. Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến1. Dàn ý hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 12. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 23. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 34. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 45. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 56. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 6II Mở bài và Kết bài phân tích Tây TiếMở bài phân tích Tây TiếnKết bài phân tích Tây TiếnIII. Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến"Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những tác phẩm thường có mặt trong các bài thi Ngữ văn 12 và thi THPT Quốc gia môn Văn. Chính vì vậy, các em học sinh cần nắm vững nội dung tác phẩm cũng như những thông tin xoay quanh tác phẩm này như tác giả, tác phẩm, nghệ thuật.... Trong bài viết dưới đây, VnDoc sẽ gửi tới các bạn Dàn ý và một số bài văn mẫu Nêu hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến. Mời các bạn tham khảo chi tiết bài viết dưới đây dung bài thơ Tây TiếnTây TiếnSông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,Heo hút cồn mây, súng ngửi thước lên cao, ngàn thước xuống,Nhà ai Pha Luông mưa xa bạn dãi dầu không bước nữa,Gục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ôi Tây Tiến cơm lên khói,Mai Châu mùa em thơm nếp trại bừng lên hội đuốc hoa,Kìa em xiêm áo tự bao lên man điệu nàng e ấp,Nhạc về Viên Chăn xây hồn đi Châu Mộc chiều sương ấy,Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?Có nhớ dáng người trên độc mộc,Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,Quân xanh màu lá dữ oai trừng gửi mộng qua biên giới,Đêm mơ Hà Nội dáng kiều rác biên cương mồ viễn xứ,Chiến trường đi chẳng tiếc đời bào thay chiếu, anh về đất,Sông Mã gầm lên khúc độc Tiến người đi không hẹn ước,Đường lên thăm thẳm một chia lên Tây Tiến mùa xuân ấy,Hồn về Sầm Nứa chẳng về Lưu Chanh, 1948I. Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến1. Dàn ý hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến2. Thân bài- Hoàn cảnh sáng tác+ Quang Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến-> Viết về Tây Tiến là viết về những trải nghiệm của người lính từng cầm súng chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến.+ Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch -> Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng.+ Cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Chủ đề+ Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc -> Thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến.+ Tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Kết bàiKhái quát đặc sắc bài thơ2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 1Quang Dũng là tác giả tài hoa tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ của Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Quang Dũng tham gia đoàn quân với chức vụ đại đội trưởng. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, thậm chí chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng. Họ mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”.• Chủ đềHình tượng người lính là đề tài quen thuộc trong thơ ca giai đoạn chiến đấu chống Mĩ và chống Pháp đầy cam go. Những sáng tác trong giai đoạn này không chỉ mang đến cho bạn đọc cái nhìn chân thực về những khó khăn thiếu thốn mà họ phải trải qua mà còn ca ngợi tinh thần lạc quan, đoàn kết của đề của bài thơ Tây Tiến bám sát vào hình tượng người lính nêu trên nhưng bằng ngòi bút tài hoa của mình, Quang Dũng mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ hơn, những khía cạnh, vẻ đẹp mới hơn của người lính trong binh đoàn của ông. Qua bài thơ, tác giả còn thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 2Quang Dũng là nhà thơ tài hoa tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ của ông. Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây- Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Quang Dũng gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh Người lính mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”.• Chủ đềQua bài thơ, tác giả Quang Dũng ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó còn thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 3Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, sức sáng tạo của ông ghi dấu trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, vẽ tranh, trong đó nổi bật hơn cả có thể kể đến thơ ca. Giữa rừng thơ ca kháng chiến muôn màu muôn vẻ, hồn thơ Quang Dũng được độc giả đặc biệt ấn tượng với nét phóng khoáng, ngang tàng nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn điển hình cho tâm hồn thanh lịch, hào hoa của những chàng trai Hà thành. Nếu nhắc đến Quang Dũng ta nhớ đến chất ngang tàng, hào hoa thì Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu nhất cho hồn thơ Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến, bởi vậy có thể nói viết về Tây Tiến Quang Dũng đã đứng ở vị trí của những người lính để ghi lại những trải nghiệm của mình cùng đồng đội trong những ngày kháng chiến gian khổ mà cũng đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới. Lực lượng chính của binh đoàn là tầng lớp thanh niên, học sinh Hà thành, Quang Dũng từng vinh dự được đứng trong hàng ngũ của binh đoàn ấy, trong thời gian công tác và hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng. Tuy nhiên, đến cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng, những kỉ niệm gắn bó đã có với những người đồng đội, với mảnh đất Tây nét hào hoa, lãng mạn của thanh niên, trí thức Hà Thành, Quang Dũng đã mang đến cho "Tây Tiến" một chất lính đầy mới lạ, cũng đầy xúc động. Đó là những người lính có lí tưởng, luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh, là những chàng thanh niên mang trong mình sức trẻ, tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua Tây Tiến, độc giả đón nhận một hình tượng hoàn toàn mới lạ về người lính trong kháng chiến, đó không chỉ là những con người yêu nước, cháy bỏng một niềm tin, lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" mà còn mang nét hào hoa, lãng mạn của những con người yêu nước, yêu đề, nội dung tư tưởng của bài thơ Tây Tiến phần nào được gửi gắm ngay trong chính nhan đề giàu sức gợi "Tây Tiến". Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến mà qua đó còn tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng không chỉ thành công tái hiện không khí chiến đấu quyết liệt, gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp mà trên cái nền dữ đội, khốc liệt của cuộc chiến ấy, Quang Dũng còn gợi cho người đọc sự xúc động mạnh mẽ về hình ảnh ngang tàng, hào hoa của người lính Tây Tiến Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 4Quang Dũng là một tác giả kĩ năng, thông thuộc nhiều nghành nghề dịch vụ nghệ thuật và thẩm mỹ, nhưng điển hình nổi bật nhất là thơ. Thơ ông bộc lộ cái tôi thanh tao, thanh nhã, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng, tất cả chúng ta không hề quên “ Tây Tiến ” một bài thơ rực rỡ trong đời thơ của ông .Tây Tiến là đơn vị chức năng quân đội được xây dựng năm 1947 với trách nhiệm phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, hoạt động giải trí khắp vùng núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nưa về phía Tây. Thanh Hóa. Quang Dũng nhập ngũ với tư cách đại đội trưởng. Thuở ấy, nơi đây còn rất hoang sơ, hiểm trở, núi cao, sông sâu. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến hầu hết là học viên, tri thức từ những trường học, từ đường phố ra chiến đấu trong hoàn cảnh rất là khó khăn vất vả, thiếu thốn về vật chất, thậm chí chết vì sốt rét hơn súng. Tuy vậy, những anh vẫn thể hiện niềm tin sáng sủa anh hùng. Họ mang trong mình sự tươi tắn, mạnh khỏe, hào hoa, lịch sự. Ở họ vừa cháy bỏng với lý tưởng “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ” vừa mang trong mình một mối tình lãng mạn đầy mộng mơ. Nét độc lạ này của người lính “ Tây Tiến ” đã thực sự chạm đến hồn thơ Quang Dũng .Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển công tác làm việc ở đơn vị chức năng khác, trong lúc dự đại hội ở Phù Lưu Chanh, tác giả nhớ lại những kỷ niệm thời kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị chức năng cũ trong những năm tháng ở vùng biên giới Tây Bắc. Những tháng ngày khó khăn nhưng hào hùng ấy đã làm rung động những sợi dây tình cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài “ Tây Tiến ”. Ban đầu bài thơ có tựa đề là “ Nhớ Tây Tiến ” trong tập thơ “ Tháng Năm Ơi ”.5. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 5- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947+ Nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào+ Địa bàn hoạt động rộng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nứa+ Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước- Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởng- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh Hà Tây- Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, in trong tập “Mây đầu ô”6. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 6+ “Tây tiến” lên tên một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, hoạt động chủ yếu ở vùng núi Tây bắc sang Thượng Lào, nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào và tiêu hao lực lượng của Pháp. Đội quân Tây tiến phần đông là học sinh, sinh viên, tri thức yêu nước còn rất trẻ.+ Bài thơ được Quang Dũng viết rất nhanh trong nỗi nhớ dâng trào về Tây tiến nên lúc đầu bài thơ có nhan đề Nhớ Tây tiến. Bài thơ được toàn quan nhiệt liệt hoan nghênh và truyền miệng rộng rã+ Bài thơ là nỗi nhớ Tây tiến của Quang Dũng, Quang Dũng nhớ về đơn vị bộ đội đóng sát biên giới Việt Lào và những ngày đấu tranh thiếu thốn, vất vả, hiểm Mở bài và Kết bài phân tích Tây Tiế- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947+ Nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào+ Địa bàn hoạt động rộng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nứa+ Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước- Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởngMở bài phân tích Tây TiếnMở bài phân tích bài thơ Tây Tiến mẫu 1Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Quang Dũng - một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính Tây Tiến vừa lãng mạn, lạc quan lại vừa bi tráng, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác về người chiến sĩ trong thời bài phân tích bài thơ Tây Tiến mẫu 2Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian và gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng mãi sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà thơ Quang Dũng cùng hình ảnh người lính Tây Tiến vừa lãng mạn, lạc quan lại vừa bi bài phân tích Tây TiếnKết bài phân tích Tây Tiến mẫu 1Thông qua sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và nhãn quan hiện thực, bài thơ Tây Tiến đã tái hiện thành công bức tranh thiên nhiên và con người trong sự phong phú, đa chiều. Sự độc đáo trong cách khám phá hình tượng người lính đã làm nên những vần thơ đậm màu kiêu bạc, đồng thời tạo nên nét đẹp riêng cùng sức sống của bài thơ trong muôn ngàn tác phẩm thơ viết về đề tài người lính, đề tài chiến bài phân tích Tây Tiến mẫu 2Bài thơ đã tái hiện thành công dòng suy tưởng và hồi ức ngập tràn nỗi nhớ, kỉ niệm của nhà thơ về hành trình chiến đấu gian khổ nhưng ngập tràn tinh thần lạc quan cách mạng của binh đoàn Tây Tiến giữa muôn vàn khó khăn của cuộc chiến. Dưới ngòi bút tài hoa và giàu chất lãng mạn của Quang Dũng, chúng ta có thể thấy được niềm kiêu hãnh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” của những người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Thân bàia. Khổ thơ đầu“nhớ chơi vơi” trơ trọi, cô độc, mỗi nhớ vô định luôn thường biểu cảm “ơi” + từ láy chơi vơi âm hưởng tha thiết, ngân vang mãi trong lòng người.→ Nỗi nhớ da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm cả không gian và thời gian.“Sài Khao, Mường Lát” là những địa danh mà binh đoàn đặt chân qua gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ → không gian thơ mộng, trữ tình.“khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở, gian nan của thiên nhiên.“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và độ sâu của dốc, vắng lặng, hoang vu."ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” diễn tả độ gập ghềnh, trắc trở của rừng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua.“Pha Luông, mưa xa khơi” đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của người lính Tây Tiến là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng. → Đây là món quà xứng đáng cho những nỗi lực của người chiến khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông ra đi của những người đồng đội là niềm đau xót cho những người ở lại.→ Những con người dạt dào tình chiến sĩ ngày đêm đối mặt với nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước sự hài hước, dí dỏm các chiến sĩ coi những nguy hiểm đó là chỉ là những tiếng gầm thét, những sự “trêu người” bên chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu những ngày mùa, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi và cả những cô gái nơi Khổ thơ 2“kìa em” vừa ngạc nhiên vừa say mê, vui sướng.“man điệu” những cô gái với bộ xiêm y lộng lẫy nhảy múa hát ca đậm chất văn hóa xứ sở.“nàng e ấp” vừa e thẹn vừa tình tứ, làm duyên trong đêm liên hoan ngập tràn tiếng hát, tiếng nhạc.→ Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn ngoài những lúc chiến đấu, hành quân vất vả, những người lính Tây Tiến hòa nhập cùng cuộc sống của người dân nơi họ đi qua, hết mình với những cuộc vui.“chiều sương ấy, nẻo bến bờ” buổi chiều sương giăng trên sông nước, bến bờ hư ảo, hoang vu. → Nhớ nhung da diết.“hoa đong đưa” làm duyên, tình tứ trên sông nước như con người.→ Nỗi nhớ nhung, vấn vương, quyến luyến của người ra đi và người ở Khổ thơ 3Căn bệnh sốt rét rừng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây và rụng hết tóc. Tuy nhiên họ vẫn làm chủ tình thế, vẫn oai phong lẫm liệt. Chính màu xanh đó cũng giúp họ ngụy trang để chiến đấu với quân thù.“giữ oai hùm” hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt như thế nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, vẫn giữ nguyên được vẻ oai phong lẫm liệt.“mắt trừng” lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ là sự khát khao giành chiến thắng, gửi những giấc mộng đẹp, những ước mơ đẹp về nơi quê hương yêu dấu của tim rạo rực yêu thương tuy chiến đấu gian khổ nhưng những người lính vẫn luôn nhớ về quê nhà, về nơi có người con gái mà họ yêu thương, nhớ nhung. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm nỗi nhớ vào giấc thẳng vào sự thật tàn khốc nhiều người lính đã ngã là những người lính trẻ tuổi, cuộc đời còn dài tuy nhiên họ đã quyết định ra đi, hi sinh tương lai, tuổi xuân của mình vì độc lập tự do của tổ người chiến sĩ hi sinh, họ chỉ được bọc trong manh chiếu rách để chôn cất nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào → thể hiện sự tôn ra đi đó làm cả núi sông, đất trời lên tiếng như một lời tiễn biệt đồng thời thể hiện sự phẫn nỗ, căm hờn trước tội ác của kẻ thù.→ Sự hi sinh vì lí tưởng cao đẹp của người lính đáng tự hào, tôn vinh. Họ mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, hào hùng, lẫm Khổ thơ cuối“không hẹn ước” ra đi không hẹn ngày trở về, thể hiện sự quyết tâm của người chiến sĩ.“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” dành cả trái tim cho miền đất Tây Bắc.→ Hồi tưởng của tác giả về ngày ra đi, trong lòng hừng hực khí thế chiến đấu và tình cảm tha thiết, gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Kết bàiKhẳng định lại giá trị của bài thơ Tây bài lớp 12 Tây TiếnSơ đồ tư duy Tây TiếnPhân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang DũngCảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất NướcPhân tích bài thơ Tây Tiến của Quang DũngTrên đây đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến. Chắc hẳn thông qua tài liệu này, các bạn học sinh cũng có cho mình những thông tin cần thiết về bài thơ, bên cạnh đó có thể học hỏi cách trình bày cũng như ý tưởng khi trình bày hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Hy vọng đây là tài liệu hữu ích giúp các em ôn thi môn Ngữ văn tốt có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Văn
Mượn lời của cố nhà thơ Quang Dũng trong bài “Tây Tiến” để bắt đầu cho bài viết về các ngôi sao Việt và cuộc chạy đua hàng hiệu, xem chừng hơi “bấp bênh”. Mượn lời của cố nhàthơ Quang Dũng trong bài “Tây Tiến” để bắt đầu cho bài viết về các ngôi sao Việtvà cuộc chạy đua hàng hiệu, xem chừng hơi “bấp bênh”. Cái sự “bấp bênh” đó nócũng đúng với chính bản chất của cuộc chạy đua này Đẳng cấp thực sự của mộtngôi sao không đến từ những thứ “che đậy” ở bề mặt. Hàng hiệu đến mấy cũng chỉlà thứ ngoại thân, cái bạn có mới là giá trị thực. Nước ao và nước giếngKhi một ca sỹ tuyên bố LV có thứ gì, tôi có thứ đó, không một ai mảy may nghingờ về tính xác thực của tuyên bố đó bởi ai cũng biết anh chàng ca sĩ này dư sứcmua sắm những thứ đó. Nhưng, đằng sau tuyên bố đó, có mấy người nói rằng ca sỹđó thật sang trọng !? hay chỉ là những xuýt xoa ca sỹ này thật giàu có. Đồrằng, vế sau sẽ được sử dụng nhiều hơn là vế trước. Nói đến đây mới nhớ đến câu nói xưa rằng Trưởng giả học làm sang. Có tiền, đànhrằng bạn có quyền để “đắp” lên mình mọi thứ, cho dù nó “hiệu” đến như thế nào đichăng nữa. Nhưng, cái căn cốt của vấn đề lại không đến từ cái-sự-đắp đó, nó đếntừ những cái-sự-được-đậy ở trong. Nói xa nói gần chẳng qua nói thẳng, Sến và Sang thì chẳng bao giờ gặp được nhaudù rằng nó cùng được bắt đầu bằng chữ S. Sến thì có thể học, có thể bắt chướcsao cho sụt sùi, cho nức nở nhưng Sang thì tuyệt nhiên không, bởi đó không phảilà kĩ năng. Sang thì từ cốt cách tính ra, còn Sến thì là những biểu hiện “bềmặt” thật tiếc cũng lại là từ “bề mặt”. So sánh một cách nông cạn thì là sự khác nhau giữa nước giếng và nước ao. Nướcgiếng được khoan sâu lòng đất, được đắp bờ bằng đá, được hứng nước mưa tinhkhiết và được chắt lọc để có dòng nước mát và chỉ dùng được sau khi đã kéo gầu,tức là có sự vận động để chắt lọc. Quách An An với túi xách Roberto Cavalli giá USD Còn nước ao, tuy diện tích rộng hơn, khả năng lưu trữ lớn hơn nhưng cũng vì cáigì cũng hơn nên tính “tiện ích” cũng đa dạng hơn, bởi cái gì cũng có thể “nhúng”được xuống ao mà chẳng mất công múc lên, rất tiện. Điều quan trọng nữa là, nướcao được dùng không chỉ với người. Nói đến sự sang, nhắc đến Lê Khanh, Cẩm Vân, Thủy Hương... những gương mặt đẹpcủa làng văn nghệ Việt chắc ai cũng đồng tình. Ai cũng biết họ, ai cũng thíchnhững vẻ đẹp của họ và ai cũng gật đầu nếu người khác nói họ sang dù rằng, họchẳng mấy khi xuất hiện với những bộ cánh lộng lẫy kiêu sa, chẳng mang vác theonhững chiếc túi từ lớn đến nhỏ đóng mác hàng hiệu. Họ cũng chẳng lên báo nói rằng họ yêu, họ tự tin hơn khi xài đồ hiệu như nhữngngôi sao đang lên hiện nay nếu có ai thắc mắc Chẳng nhẽ trước khi xài đồ hiệu,các anh/chị không tự tin thì chẳng biết các ngôi sao sẽ trả lời ra sao. Phù phiếm và...?Trong một bài trả lời phỏng vấn gần đây của người mẫu Thủy Hương có tên “Ngườiđàn ông nào đủ cho sự phù phiếm của tôi?”, người đẹp này khẳng định phù phiếm vàxa hoa là cái gốc của quý tộc và đó là sự phù phiếm dòng tộc, tự thân nhữngngười xuất phát từ cuộc sống vương giả xa hoa đã mang trong mình. Còn khác ra,sự phù phiếm không tự nó có được mà đến từ những quan sát và học đòi, để rồi đếnlúc “a dua” không được nữa thì sinh thành “nợ” của những “Labels – Hàng hiệu”.Hàng hiệu nếu có được dùng đại trà cho số đông, cho hàng loạt, thì cũng khó mànói được rằng đó là đẳng cấp. Đơn giản thôi, nếu bạn thấy đến 5 nghệ sĩ khoácchung một mẫu túi xách mà không có sự “pha chế một cách thông minh” mang tính cánhân vào những phụ kiện đắt tiền đó thì cá tính sẽ nhạt nhòa như nhau. Thế nên,một loạt các ngôi sao xếp hàng dài, dùng hàng hiệu nhiều nhiều thì cũng chẳng aikhen cô này cao cấp hơn cô ra trời Tây, ngay đến Victoria Beckham, một ngôi sao được cho là phù phiếmđến tận cùng cũng đừng quên Victoria Beckham xuất phát từ gốc quý tộc Anh thìcũng có những lúc họ vẫn xài những đồ... siêu rẻ. Trong một bức hình chụp cảnhVictoria Beckham đi dạo phố, người ta đã “tính toán” tổng số tiền mà nàng PoshSpice chi cho trang sức và phụ kiện chỉ có... 183USD. Kính mát Fendi giá 7,9 triệu đồng của Tăng Bảo Quyên Cụ thể như sau một chiếc kính Fred Flare giá 8 USD, váy trắng Issac Mizrahi forTarget giá 35USD, túi sách Shop Suey Boutique 60USD, giày RVSP 80USD. Đừng nóirằng, vì Victoria Beckham nghèo nên xài đồ rẻ. Cái quan trọng là họ có một “gu”thẩm mĩ để không chỉ hãnh diện với hàng hiệu và tất nhiên, ai cũng thấy “bàBeck” vẫn sang hóa hàng hiệuChính bởi thế, văn hóa hàng hiệu là một cụm từ được dùng đến nhiều trong thờigian gần đây để chỉ về phương cách mà các ngôi sao đang xài hàng hiệu ngày mộtnhiều trong mỗi lần xuất hiện trước đám đông. Một cô ca sĩ như TT đi làm từthiện cũng vác theo cái túi LV. Người đẹp CTQ đi thi Hoa hậu Liên lục địa cũng khoác chiếc túi LV giữa một hàngcác người đẹp... tay không. Một ca sĩ hàng đầu như ĐVH lên sân khấu cũng phảihàng hiệu từ đầu đến chân, không chừa chỗ nào. Với họ, từ “tinh tế” dường như làmột sự “xa xỉ”. Bởi, nếu họ có điều đó, thì chỉ cần một chiếc khăn tay hàng hiệu nhỏ nhắn, xinhxắn được buộc nhẹ nhàng, hờ hững vào một chiếc túi xách cũng đủ để người sànhđiệu biết rằng, cô đó/ anh đó thật thời trang và tinh tế. Thế nên mới nói, saoViệt giờ cứ hễ có cơ hội xuất hiện là trưng hàng hiệu, dù rằng sự xuất hiện đóchẳng cần thiết phải chứng tỏ một điều gì hết về đẳng cấp của mình. Nếu có nói nhiều ngôi sao Việt đang chạy theo một cuộc đua dùng hàng hiệu đểchứng tỏ đẳng cấp và thể hiện “sự có tiền” của mình, cũng không sai. Cuộc chạyđua đó chắc chắn sẽ tốn rất nhiều tiền nhưng hiệu quả đong đếm được là bao nhiêulại sang một câu chuyện khác. Cũng chẳng thể vì những thứ bạn khoác lên mình mà hình ảnh của bạn trong mắtngười khác “tăng” thêm vài “chân kính”. Cái quan trọng là cách bạn chọn để xuấthiện như thế nào và đâu là điểm nhấn để bạn trở thành tâm điểm của một bữa tiệcmà nhìn trước nhìn sau thấy đâu đâu cũng “đụng hàng”. Huy Khánh dùng hàng hiệu sẽ thấy tự tin hơn Hàng hiệu là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng cách dùng như thế nào để ngườikhác phải ngoái đầu lại nhìn thì là một chuyện khác. Cái đó, đòi hỏi nhiều hơnlà một hầu bao rủng rỉnh mà nó còn là cả một “nền tảng”. Nền tảng đó có thể là “gu” thẩm mĩ có sẵn hoặc được hình thành và bồi đắp quacuộc sống hằng ngày. Đừng quên, kiến thức cũng đóng một vai trò quan trọng trong“nền tảng” đó. Thực tế, nếu bạn để ý sẽ thấy có những ngôi sao ăn mặc chẳnggiống ai ngay cả khi họ mang trên mình những thứ giá trị như kim cương. Những điểm sáng hiếm hoiNói gì thì nói, một ngôi sao nói về hàng hiệu bao giờ cũng có sự đáng tin hơn làmột người dân thường nhưng nói được và làm được, làm sao cho đẹp lại không phảilà điều dễ dàng để ai nghe cũng gật đầu. Và đó chính là điều không thể phủ nhậnvề sự ảnh hưởng của một ngôi sao giải trí tới công chúng thông qua những lựachọn của họ. Hiếm lắm những hình ảnh như Hồ Ngọc Hà xuất hiện tại nước ngoài với trang phụcđược lựa chọn một cách cầu kì và hợp lí để là tâm điểm của báo giới trong lần dựLiên hoan Âm nhạc Châu Á trong tháng 9/ 2009 vừa qua tại Hàn Quốc. Kathy Uyên với kính mắt thời trang của hãng Versace Nhu cầu mua sắm hàng hiệu tại Việt Nam giờ không còn ở lúc “sơ khai” như khi LVkhai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam của hơn thập kỉ trước. Những trangbáo quảng cáo ngập tràn trên các tạp chí, ấn phẩm ít nhiều cũng đã nói lên nhucầu mua sắm hàng hiệu của thị trường Việt Nam ngày càng phát triển. Trong đó, vai trò của các ngôi sao đóng góp không nhỏ. Nhưng mấy người tạo đượcsự tin tưởng trong việc chọn lựa hoặc được các hãng thời trang nước ngoài tintưởng trong việc “giao phó” việc quảng bá thương hiệu của họ tại Việt Nam nhưHồng Nhung với Escada và Đỗ Hải Yến với LV. Không phải ngẫu nhiên họ chọn những gương mặt này để quảng bá những dòng sảnphẩm đã quá nổi tiếng trên thế giới khi xâm nhập một thị trường mới. Với nhữngchuyên gia thời trang và kinh tế hàng đầu thì việc lựa chọn gương mặt đại diệnkhông chỉ là “thân quen” hoặc “cảm hứng”...Câu chuyện về hàng hiệu và nhu cầu “trưng trổ” ở bất cứ đâu, bất cứ ngành nghềnào cũng có, không chỉ riêng nghệ thuật hay riêng tại Việt Nam. Làm đẹp và thểhiện bản thân là nhu cầu chính đáng, điều đó ai cũng nắm rõ. Nhưng hơn ai hết,những người làm nghệ thuật nên hiểu rằng hình ảnh của họ trong mỗi lần xuất hiệnlà một dấu ấn. Dấu ấn đó không đến từ việc họ khoác lên người tổng giá trị mấy chục ngàn đô hayđó là bộ cánh mới nhất của thương hiệu A, B, C mà là hình ảnh của họ trong mắtcông chúng có “thuận” hay không. Mọi người vẫn nói vui với nhau rằng, người đẹpthì khoác bao tải lên người vẫn đẹp. Điều này có vẻ hơi thậm xưng, nhưng không phải không có căn cứ, bởi nếu mộtngười ý thức được đâu vẻ đẹp của mình thì chuyện “nô lệ” của thời trang lạikhông phải điều họ quá quan tâm. Thế nên mới có câu Chiếc áo không làm nên Nguyễn HàẢnh Tintuconline sưu tầm
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" Nếu như ở trong 14 câu thơ đầu của bài thơ Tấy Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã đưa chúng ta ngược trở về quá khứ với những miền nhớ thương, nỗi nhớ thương những kỷ niệm gắn liền với những người đồng chí, đồng đội của mình trên những chặng đường hành quân gian khổ, nỗi nhớ thương gửi về khung cành của núi rừng Tây Bắc hùng thiêng, nơi những dẻo cao đầy sương trắng thì ở 8 câu thơ tiếp theo này, cuốn phim lại chiếu cho chúng ta những kỷ niệm tuyệt vời mà người lính Tây Tiến trải qua, một đêm liên hoan văn nghệ cùng đồng bào dân tộc Tây Bắc. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” Ký ức quay ngược trở về với một đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại. Ở câu thơ này, từ “bừng” được coi là nhãn tự của câu thơ. Bởi chỉ một từ này xuất hiện, mà khiến cho cả khoảng không gian tối đen của đại ngàn Tây Bắc tràn ngập ánh sáng ấm áp, ánh sáng của ngọn lửa, ánh sáng xua đi giá lạnh, xua đi những mệt nhọc vất vả, động từ này được sử dụng mở ra một không gian ánh sáng cho cả câu thơ. Thắp lên trong trái tim của những người chiến sĩ những ngọn lửa hồng, ấm áp. Dưới cs nhìn lãng mạn của thi nhân, ngọn đuốc trông giống như hình bông hoa nở, nên tác giải dí dỏm gọi đó là “đuốc hoa”, từ ngữ này cũng gợi ra sự trang trọng, cổ kính. Cả doanh trại bừng sáng bởi ánh lửa bập bùng, ánh sáng soi chiếu rõ những khuôn mặt của những người lính, và của cả những cô sơn nữ xinh đẹp để rồi nhà thơ thốt lên “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” Ánh mắt của nhân vật trữ tình bây giờ đang hướng về những người con gái của vùng núi cao Tây Bắc với ánh nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến bất ngờ. Dường như có một khoảng dừng ở trong câu thơ này. “Kìa em” là một tiếng reo đầy ngạc nhiên, thảng thốt và vui sướng. Trước mắt họ bây giờ, trong ánh lửa bập bùng của đêm liên hoan văn nghệ, là hình ảnh của những cô gái Thái, cô gái Lào với những bộ trang phục dân tộc rực rỡ sắc màu, đẹp lung linh. Bom đạn của chiến tranh trong khoảnh khắc này dường như đã biến mất từ bao giờ trong tâm trí của những người lính, chỉ còn lại ở nơi đây, là ánh sáng, là niềm vui, là tình yêu trong một không gian âm nhạc núi rừng đầy thơ mộng “ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Không gian của âm nhạc đã dẫn lối những người lính đến những miền đất lạ. Cả đất trời đang nghiêng ngả theo men say của tiếng khèn, của những điệu múa dân tộc mà những cô sơn nữ xinh đẹp thể hiện trong bộ cánh rực rỡ. Ánh sáng, âm nhạc, tình yêu dẫn lối những người chiến sĩ lạc vào những miền đất xa xôi, để những tình cảm ấy nhanh chóng thành vẫn thành điệu, cất lên những lời thơ. Rũ bỏ những mệt nhọc, những gian khổ và hy sinh nơi chiến trường đầy bom đạn, trong giây phút này, những chiến sĩ đã trở thành thi sĩ, để hòa mình vào đêm liên hoan văn nghệ với những niềm vui hiếm hoi. Có thể thấy rằng, bom đạn của kẻ thù chẳng thể nào khiến cho con người ta sợ hãi, con người ta hoàn toàn có thể gạt nỗi sợ hãi đó sang một bên, dành khoảng thời gian cho tâm hồn vui vẻ trở lại, để thêm quyết tâm chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại đã giúp cho những người đọc cảm nhận được chất thi sĩ trong những tâm hồn chiến sĩ.
advérbio 1. Indica grau ou intensidade, em frases interrogativas ex. quão dispendioso é?. 2. Indica grau ou intensidade, em frases exclamativas ex. quão escura é a noite!. = QUANTO conjunção 3. Usa-se para indicar grau ou intensidade numa frase integrante ex. contou quão assustadora foi a travessia; não sabe quão arrependido fiquei; o tempo provou quão enganados estávamos. = O QUANTO, O QUÃO, QUANTO 4. Usa-se numa comparação, antecedido de tão, para indicar igualdade ou equivalência ex. ele foi tão claro quão cruel na crítica; explicou tão bem quão demoradamente. = COMO, QUANTOo quão•Usa-se para indicar grau ou intensidade numa frase integrante ex. mostrou o quão consternado estava; sei o quão revoltada fiquei; esta atitude mostra o quão vil ele é. = O QUANTO, QUANTO, QUÃO Origem etimológicalatim quam.
1. Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của mình về vùng đất Tây Bắc – nơi mà đoàn binh Tây Tiến của ông đã có rất nhiều kí ức khó phai. Giờ đây,những gian khổ như lùi ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân ng kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của tác phẩm có lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ, hoang sơ và có lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Vẻ đẹp của bài thơ có thể thấy phần nào khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, trong đó không thể không tìm hiểu những ý chính về tác giả, tác phẩm. Quang Dũng sinh năm 1922 – mất năm 1988 là người con của thủ đô Hà Nội. Tên thật của ông là Bùi Đình Diệm và ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà thành đầy sức trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò là một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Chính những điều này đã củng cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho đất nước cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm tư của mình lại thành những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời là những đóng góp rất đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà. Một số tác phẩm nổi bật của Quang Dũng cần kể đến như “Rừng biển quê hương” năm 1957, “Đường lên Châu Thuận” năm 1964, “Rừng về xuôi” năm 1968, “Mây đầu ô” năm 1986. Về sau, Quang Dũng được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật nhờ sự thành công trong những sáng tác của mình. Bài thơ “Tây Tiến” ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” và được in trong tập “Mây đầu ô”. Tác phẩm này được ra đời do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm mà ông có được cùng đoàn binh Tây Tiến trong quá trình làm nhiệm vụ ở Tây Bắc. Binh đoàn của ông được thành lập vào năm 1947 và có tên là Tây Tiến, trong đó Quang Dũng là người đại đội trưởng. Lực lượng chủ yếu của binh đoàn này là những thanh niên, học sinh của đất Hà thành và đảm nhiệm vai trò là những người sẽ bảo vệ biên giới Việt Lào trong thời kỳ miền Tây Bắc Bộ Việt Nam bị Pháp đánh chiếm cùng với vùng Thượng Lào. Khi đóng quân ở chiến địa này, đoàn binh đã phải đương đầu với rất nhiều những thử thách và trở ngại bởi nơi đây có địa hình rất hiểm trở, thiên nhiên hoang sơ và thời tiết cũng rất khắc nghiệt. Đường dốc, núi cao, vực thẳm, thú dữ, sốt rét,… là những thứ đe dọa đến sức khỏe và sinh mạng của Quang Dũng và những người đồng đội của mình tại nơi công tác… Thế nhưng đối diện với những hiểm nguy nói trên, trong những dòng viết của Quang Dũng, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, bất khuất, luôn giữ được tinh thần lạc quan, yêu đời và đặc biệt là họ đã có với nhau rất nhiều những kỉ niệm đẹp. Đến khi chuyển công tác, những kỉ niệm đó vẫn không một phút giây nào phai mờ trong tâm trí nhà thơ. Thế nên ông đã viết ra “Tây Tiến” để chính tác phẩm sẽ thay ông thổ lộ hết những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình. Vẻ đẹp của núi rừng trong đêm hội cùng với sự thơ mộng của một vùng sông nước hòa quyện với sự xuất hiện của em… Tất cả đã tạo nên chất thơ rất riêng mà chỉ khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến ta mới có thể thấy rõ. Mở đầu khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh của đêm liên hoan với ánh sáng rực rỡ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” Động từ “bừng lên” vốn là động từ mạnh khi kết hợp với hình ảnh “đuốc hoa” dường như đã thắp sáng cả doanh trại và còn lan tỏa ánh sáng ấy ra khắp không gian tịch mịch, u tối của núi rừng Tây Bắc. Khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy hình ảnh “đuốc hoa” trước nay vẫn thường gợi đến niềm hạnh phúc lứa đôi. Và trong bài thơ, khi Quang Dũng sử dụng hình ảnh này chắc cũng có lẽ cũng là để diễn tả niềm hạnh phúc của người lính khi được sống hòa mình trong đêm liên hoan tại doanh trại công tác. Lúc “đuốc hoa” bừng lên là khi hơi ấm đến với người lính và những giá lạnh được xua đi, cũng là chính là lúc người lính được gần gũi, gắn bó không chỉ với đồng đội mà còn với cả nhân dân, để dù xa nhà, xa quê họ vẫn có thể sống trong tình yêu thương, sự quan tâm của tình thân, bè bạn. Khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy sự thật là giữa cuộc hành quân đầy gian lao và vất vả, thậm chí tinh thần họ lúc nào cũng phải trong tâm thế sẵn sàng đối diện với những mất mát và hiểm nguy. Thế nên những đêm liên hoan diễn ra như thế này đã góp phần tạo nên chút niềm vui, giúp họ giải tỏa những căng thẳng, cho họ sự động viên để họ lại có thể tiếp tục vững bước trên hành trình gian truân ở phía trước. Không chỉ có sự xuất hiện của ánh sáng, ở những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng còn gợi nên không khí tưng bừng của đêm liên hoan và đặc biệt hơn là trong không khí tưng bừng ấy lại có sự xuất hiện rất duyên dáng của “em” “Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Góp vào sự lung linh, rực rỡ của ánh “đuốc hoa” là âm thanh hết sức sôi nổi, vui tươi của điệu khèn, tiếng nhạc. Không chỉ có vậy, hình ảnh những cô gái với xiêm áo lộng lẫy đang nhịp nhàng, “e ấp” trong những vũ điệu của miền sơn cước đã khiến cho đêm liên hoan thêm phần sống động, lôi cuốn. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến sẽ thấy cụm “kìa em” đứng ở vị trí đầu câu thơ gợi sự bất ngờ nhưng đầy thiện cảm của người lính khi nhìn thấy sự hiện diện của các cô gái bản làng với trang phục lộng lẫy đang hòa mình vào không khí rộn ràng, vui tươi của đêm liên hoan. Chính sự xuất hiện của những cô gái trong khúc nhạc điệu vốn là hồn cốt của núi rừng Tây Bắc cùng với khung cảnh của đêm liên hoan đã tạo nên chất tình tứ, lãng mạn của cuộc liên hoan. Có ý kiến cho rằng câu thơ “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” như một lời gợi nhắc về địa điểm diễn ra đêm liên hoan ở vùng biên giới Việt – Lào vì địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến không chỉ là ở khu vực Tây Bắc mà cờn ở địa phận ở các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng ở Lào. Đó cũng là một ý kiến có căn cứ và xét thấy cho dù là cuộc liên hoan ấy diễn ra ở đâu đi chăng nữa thì điều tác giả muốn gửi gắm có lẽ vẫn là sự hòa hợp giữa con người và khung cảnh, đặc biệt là sự thân tình, trìu mến của quân và dân. Có thể thấy, từ khi “em” xuất hiện cùng với những khúc nhạc của núi rừng thì giữa khung cảnh và con người, giữa quân và dân như không còn khoảng cách nữa. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy cả cảnh vật và con người như hòa vào nhau để cùng ngây ngất, rạo rực trong sự tưng bừng, sôi nổi của đêm liên hoan. Không khí của “hội đuốc hoa” ấy càng diễn ra tưng bừng, nhộn nhịp bao nhiêu thì tình cảm, cảm xúc của nhà thơ lại càng trào dâng mãnh liệt bấy nhiêu để rồi những cảm xúc ấy được chắp thêm đôi cánh và hóa thành những vần thơ diễn tả rất uyển chuyển và nhịp nhàng. Không đơn thuần là những con chữ, người đọc như nhìn thấy cả ánh sáng, nghe được âm thanh và cảm nhận được vẻ đẹp cuốn hút đầy sức sống của những người con gái của núi rừng. Khi không khí của đêm liên hoan vẫn chưa hết nhộn nhịp thì trong lòng tác giả lại có cảm giác như được gọi về những kỉ niệm tươi đẹp của buổi chiều sương Châu Mộc “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Hình ảnh con người hiện hữu ở câu thơ đi kèm cùng những câu hỏi đầy tha thiết. Nhân vật trữ tình luôn băn khoăn “người đi Châu Mộc chiều sương ấy” liệu rằng “có thấy” và “có nhớ” những vẻ đẹp thật thơ mộng, nên thơ của “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc” và cả “dòng nước lũ” có những cánh hoa đong đưa. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến để thấy trong làn sương chiều hôm người đi, cảnh vật như nhòe mờ, mông lung nhưng phải chăng chính vì thế mà nó trở nên có hồn hơn, ấn tượng hơn. Những bông lau phất phơ trên bờ bến phải chăng đã tạo nên cái hồn cho bến bờ hay hồn của cảnh là sự hóa thân của chính tâm hồn nhà thơ để mỗi một ngọn lau, một cánh hoa cũng mang những nỗi niềm, tâm trạng. Chính những điều này đã biến những sự vật vốn vô tri như cũng có riêng đời sống của nó. Thêm vào đó, sự gợi nhắc về dáng người mảnh mai, duyên dáng trên chiếc thuyền độc mộc xinh xinh đã khiến cho bức tranh về cảnh và người hiện lên với sự khỏe khoắn, rắn rỏi bên cạnh cái vẻ huyền ảo, mơ màng của miền cổ tích xa xưa… Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy có lẽ, những nghi vấn về việc người đi “có thấy”, “có nhớ” giờ đây đồng thời cũng là lời khẳng định rằng những hình ảnh về cảnh vật và con người chốn này mãi mãi sẽ khắc ghi trong lòng tác giả cũng như những người lính nói chung. Chính vì “thấy” và “nhớ” rõ mồn một từng chi tiết, đường nét của cả người và cảnh nên ướm hỏi cũng thực chất là bày tỏ nỗi lòng và một khi phải rời xa chốn thân thương thì chắc hẳn trong lòng sẽ chất chứa nỗi nhớ mênh mang, sâu lắng và sức ám ảnh khôn nguôi về cảnh ấy và người ấy. Qua khổ thơ thứ hai, người đọc cảm nhận được sự tài hoa của tác giả bởi nét bút của ông vừa sinh động, biến ảo trong những câu về đêm hội núi rừng và cũng vừa tinh tế, mềm mại ở đoạn viết về thiên nhiên. Chính sự tài hoa đó đã giúp cái đẹp thắm thiết, đậm đà của tình quân dân và vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên hiện hữu trước mắt người đọc một cách rõ ràng đầy ấn tượng. 2. Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp trong khổ thơ thứ 2 bài Tây Tiến của Quang Dũng Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh Hà Tây cũ, ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”. Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”3096. Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng người, vật từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hao trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt. Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”. “Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút “Sương đầu núi buổi chiều như dội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…” Chinh phụ ngâm Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau “Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng”. Lau mùa thu – Chế Lan Viên Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc. Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. 3. Bình giảng nội dung đoạn thơ thứ 2 bài Tây Tiến của Quang Dũng Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta bình giảng là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” “Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn. Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan “Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ. Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ "ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ”hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có nghĩa là nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy. “Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn của mùa thu đi Ngàn lau xao xác trắng” Chế Lan Viên Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường "Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà… Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ”dồi lên dập xuống” mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa... Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị. Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ. 4. Cảm nhận vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến qua đoạn 2 bài thơ Tây Tiến Quang Dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… Hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, thiết tha với quê hương, đất nước mình. Tây Tiến là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của đời thơ Quang Dũng. Tác phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà mĩ lệ, nên thơ cùng hình ảnh lãng mạn, bi tráng về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ thứ 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ; cảnh thiên nhiên, con người miền Tây trữ tình, thơ mộng. Qua đó thể hiện vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến. Hào hoa chỉ vẻ lịch lãm, sang trọng, phóng khoáng trong cách sống, cách cư xử,....Trong bài thơ “Tây Tiến”, vẻ đẹo hào hoa là vẻ đẹp của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, mềm mại, bay bổng, mơ mộng; khẳng định cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Vẻ đẹp hào hoa nâng đỡ tinh thần người lính vượt lên mọi thử thách trong máu lửa chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày mai chiến thắng. Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được biểu hiện qua nỗi nhớ về tình quân dân với cảnh đêm liên hoan văn nghệ mang màu sắc phương xa, xứ lạ. Với nét vẽ khỏe khoắn, mê say, Quang Dũng dẫn người đọc vào một đêm liên hoan văn nghệ đầy hấp dẫn nơi xứ lạ. Đêm liên hoan trở thành đêm hội tưng bừng với hình ảnh “đuốc hoa” rực rỡ, gợi những liên tưởng thi vị, tình tứ, mang đến niềm vui rạo rực, náo nức lòng người. Cụm từ “bừng lên” như nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, đó là ấn tượng về ánh sáng chói lòa, đột ngọt của lửa, của đuốc làm ấm nóng cả núi rừng. Hình ảnh trung tâm của đêm hội là “đuốc hoa”, là những thiếu nữ miền sơn cước Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Sự kết hợp của từ Kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng, thú vị vừa ngưỡng mộ, trìu mến của người lính Tây Tiến. Người xem hội, người tham gia liên hoan ngất ngây trong tiếng khèn, trong man điệu mang đậm chết núi rừng vừa bí ẩn, quyến rũ, vừa tình tứ, e thẹn nhưng cũng mãnh liệt, tha thiết của những thiếu nữ miền Tây. Cảnh vật, con người như ngả nghiêng, ngây ngất trong những giây phút bình yên hiếm hoi của thời chiến. Dư âm của chiến tranh tàn khốc bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn trong tiếng nhạc, hồn thơ. Đây là một kỉ niệm đẹp, khó phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiế nói chung và trong lòng Quang Dũng nói riêng. Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được còn được biểu hiện qua kí ức khó phai về khung cảnh thiên nhiên và con người miền Tây trữ tình, thơ mộng. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” là người lính Tây Tiến, họ như đang dẫn người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, lặng tờ mang một màu sắc huyền thoại. Cảnh thơ mộng, trữ tình được nhà thơ diễn tả qua các chi tiết chiều sương giăng mắc mênh mang mờ ảo, dòng sông trôi lặng tờ đậm màu sắc cổ tích, dáng người mềm mại, uyển chuyển lướt trên con thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng thác lũ. Cảnh không vô tri vô giác, mà trong gió trong cây, như có linh hồn của vạn vật “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau của li biệt, phảng phất chút buồn nhưng không xao xác, lãng quên mà đầy nhớ nhung, lưu luyến. Hình ảnh bóng dáng con người Tây Bắc hiện lên trong khung cảnh huyền ảo, mờ xa. Dáng người mềm mại, nhỏ bé nhưng lại cứng cỏi, kiên cường. Hoa trên dòng thác lũ đong đưa tình tứ như níu giữ cái nhìn say mê của những “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Bóng người, bóng hoa như họa thêm vẻ đẹp cho nhau tạo ấn tượng giàu cảm xúc về cảnh và người miền Tây. Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát cất lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, lãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc dẫn người đọc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, cõi nhạc. Với cảm hứng lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc trở về với những giây phút bình yên, hiếm có của thời chiến tranh, về thế giới cổ tích với dòng sông huyền thoại… Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng ấy của thiên nhiên và con người Tây Bắc được cảm nhận qua tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của người lính Tây Tiến. Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến vừa kết tinh được vẻ đẹp chung của hình tượng người lính trong những trang thơ chống Pháp có lí tưởng cao cả, đầy ý chí và nghị lực vượt lên mọi khó khăn, vừa chứa đựng vẻ đẹp riêng trong trang thơ Quang Dũng vẻ đẹp hào hoa. Vẻ đẹp ấy được khắc họa bằng cảm xúc lãng mạn, bay bổng cùng các thủ pháp đặc trưng của bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã góp phần làm phong phú diện mạo thẩm mĩ của chân dung người lính vệ quốc trong thơ ca Việt Nam thời chống Pháp. Bên cạnh hình tượng người lính xuất thân từ nông dân chất phác, bình dị, hồn hậu, là người lính của đất Hà thành mnag tâm hồn hào hoa, lãng mạn.
kìa em xiêm áo tự bao giờ